LỜI GIỚI THIỆU ĐẦU

Thứ sáu, 22/09/2017

LỜI NÓI ĐẦU

Gia phả hay gia phổ là bản ghi chép tên họ, tuổi tác, ngày giỗ, vai trò và công đức của cha mẹ, ông bà, tiên tổ. Gia phả là bản ghi chép những thông tin lịch sử của một dòng họ: tên, tuổi, ngày sinh, ngày mất, mộ phần, công đức của mỗi thành viên.

Theo từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh thì Gia phả là quyển sách ghi chép thế hệ lịch sử tổ tiên trong dòng họ.

Như vậy, gia phả là tài liệu quý giá của một dòng họ hay gia đình lớn lưu truyền từ đời này sang đời khác và được lưu giữ rất cẩn thận. Việc ghi chép gia phả cũng phải tuân theo một quy định chặt chẽ. Chỉ có những người Trưởng tộc, Trưởng họ mới được phép chấp bút ghi chép vào gia phả.

Gia phả của một dòng họ là tư liệu lịch sử để con cháu tự hào về truyền thống, công đức của ông cha, tổ tiên. Đó cũng là nơi để anh em, họ hàng duy trì mối quan hệ máu mủ, đoàn kết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Cũng thông qua gia phả con cháu các đời sau biết được và hiếu nghĩa với cha ông, tổ tiên, những người còn sống và cả những người đã khuất bóng.

2. Đối với dòng họ Nguyễn Hai. Thôn Đồng Vàng, xã Hoàng Long, huyện Phú Xuyên, Hà Nôi. (Gia đình lớn của cụ Nguyễn Văn Đức – thân sinh ra cụ Ngyễn Hai Lộc) do yếu tố lịch sử dẫn đến các tài liệu của dòng họ bị thất truyền. Để lưu trữ lại lịch sử đã qua và ghi chép tương lai, chúng tôi, những con cháu đời thứ 4, thứ 5 của Cụ nguyễn Văn Đức lập gia phả dòng họ để truyền lại cho đời sau.

Trước những khó khăn trong việc bảo tồn tài liệu bằng giấy và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Chúng tôi lập trang web: http://hailocnguyen.com để tiện cho việc lưu trữ những tư liệu về lịch sử dòng họ. Ngoài ra, trang web còn là nơi giao tiếp không chỉ bó hẹp cho một nhóm người mà toàn bộ con cháu trong dòng họ. Việc lập trang WEB cho dòng họ mang lại các lợi ích như sau:

  • Việc lưu trữ được lâu dài, an toàn và đa dạng, dung lượng lớn.

  • Việc tìm hiểu tra cứu được thường xuyên và rộng rãi tiện lợi cho tất cả mọi người: Có thể tra cứu ở bất cứ địa điểm nào.

Việc trao đổi thông tin tiện lợi và chủ động tạo mối liên kết giữa các thành viên trong dòng họ.

Tuy nhiên, là những người không có chuyên môn trong việc lập, viết gia phả nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong các Quý đọc giả, các thế hệ con cháu mai sau góp ý, bổ sung để ngày càng hoàn chỉnh hơn gia phả dòng tộc Nguyễn Hai.

(Cầu Gồ, ngày 26 tháng 08 Năm Đinh Dậu)

Phần tài liệu của dòng học để lại không có, tất cả các nội dung viết ở đây đều được viết dựa theo lời kể của các cụ mà chúng tôi được biết.

Điểm xuất phát của dòng họ là từ Thôn Đồng Vàng – Xã Hoàng Long – Huyện Phú Xuyên – Tỉnh Hà Tây ( Nay là Thành phố Hà Nội).

Ông Nguyễn Văn Lễ ( đời thứ 3) kể rằng: Cụ bà ( không rõ tên húy) hiệu là Diêu Thính ( Hiện phần mộ an táng tại Đồi Tròn Phố Hoàng Hoa Thám, Thị trấn Cầu Gồ - Yên Thế - Bắc Giang) là con gái của một quan Tứ trụ triều đình, quê gốc ở Thanh Hóa lấy Cụ ông Nguyễn Văn Đức ở Thôn Đồng Vàng, Xã Hoàng Long, Huyện Phú Nguyên. Cụ Đức làm nghề Hàng Xáo ( Bán gạo).

Cụ Tổ sinh hạ được 4 người con:

  • Cụ Ông Nguyễn Văn Đại – là con cả nên hay gọi là Cả Đại

  • Cụ Ông Nguyễn Văn Lộc – hay gọi là Hai Lộc.

  • Cụ Bà Nguyễn Thị Rền – tên thường gọi là Dưỡng

  • Cụ Bà Nguyễn Thị Thứ

Cụ Ông Nguyễn Văn Đại – hay Ông Cả Đại sống ở quê Đồng Vàng sinh được hai người con gái, không có con trai. Một người con gái hay gọi là Bá Tư Chi lấy chồng ở quê và sinh được các anh Trà, anh Chiến, anh Hòa,…

Cụ Ông Nguyễn Văn Lộc hay Ông Hai Lộc sinh ngày ( 1890 – 26/8/1967)

Ông Hai Lộc là người giỏi giang, học rộng. Ông thông thạo tiếng Pháp và rất giỏi Hán Ngữ. Năm 17 tuổi ông rời khỏi làng đi Hà Nội cùng bạn bè kinh doanh xe khách chạy tuyến Hà Nội – Hải Dương. Sau khi có lượng vốn Cụ tham gia cai thầu “lục bộ” – Cai thầu nhân công xây dựng tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai.

Khoảng vào những năm 1913 khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Cụ Hoàng Hoa Thám lãnh đạo thất bại, ông Hai Lộc về mua đồn điền lập trang trại sản xuất.

Ông Lễ kể rằng, do tư chất thông minh hơn người nên Cụ Hai Lộc đã thông thạo hai ngôn ngữ Pháp văn, Hán văn. Cũng nhờ vào đó có lần cụ Hai Lộc đã cứu sống cả làng. Sau khi cụ Hoàng Hoa Thám thất thế, giặc Pháp vẫn mở nhiều đợt càn quét lên Yên Thế. Có một lần tránh căn, cả làng sơ tán vào rừng “Hố Chuối”, một căn cứ cử của của nghĩa quân Yên Thế. Trâu, bò, lợn, gà, người già, trẻ nhỏ tập trung và im phắc trốn trong rừng. Vì quá sợ nên có đứa trẻ khóc thét, người Pháp phát hiện định bắn thì cụ ông Hai Lộc tiến đến nói tiếng Pháp với họ rằng là người dân sợ đi trốn chứ không phải là nghĩa quân nên người Pháp đã không bắn và cho về làng sinh sống.

Việc cụ ông Hai Lộc ra đi và rất ít khi về quê Đồng Vàng vì lý do năm cụ mới 17 tuổi làng bắt đóng thuế đinh do vậy cụ bỏ làng ra đi. Một trong những lần hiếm hoi cụ về quê là ở xã Hoàng Long có tục lệ ngày tết chơi cờ giải. Khi vào nhưng vòng trong người thắng được nhận giải còn người thua bị đưa lên xe tay cho làng đánh chiêng trống đẩy ra bờ đê đổ xuống. Năm đấy cụ tổ Nguyễn Văn Đức thua trận và bị làng cho lên xe đổ ra bờ đê,  Cụ tổ Bà Hiệu là Diệu Thính cho gọi cụ ông Hai Lộc về đánh cờ phục thù cho cha. Và cụ ông Hai Lộc đã thắng. Ban tổ chức có điếu đình rằng cụ ông Hai Lộc là người đi xa về nên chỉ nhận giải và người thua không phải lên xe đổ ra bờ đê, nhưng cuối cùng cụ không chịu, cụ không nhận giải mà yêu cầu chở người thua cờ đổ ra bờ đê.

(* Chơi tổ tôm với người Pháp)

Cụ ông Hai Lộc do biết tiếng Pháp nên chơi thân với người Pháp (Theo tôi hiểu đây cũng là chính sách thuộc địa của người Pháp). Vì thân quen nên Cụ đã xin được miễn thuế 3 năm cho vùng đất Phồn Xương với lý do mất mùa (Trong đó phần lớn là đất của cụ) – Kinh tế của cụ ngày càng tốt thêm!

Là người giàu có nhưng vẫn yêu lao động. Ông Lễ kể rằng cụ Hai Lộc tự trồng một vườn cam rất rộng, giống cam sành Bố Hạ nổi tiếng. Vào vụ làm cỏ vườn cam cụ đóng khố đi sạc cỏ nhưng lại có 2 tá điền (người làm) quạt hầu cụ.

Cụ ông Hai Lộc sinh được 11 người con gồm:

  • Ông Nguyễn Văn Thọ - 1914

  • Ông Nguyễn Văn Thi

  • Ông Nguyễn Văn Thư

  • Ông Nguyễn Văn Lễ

  • Bà Nguyễn Thị Nhu

  • Bà Nguyễn Thị Phượng

  • Ông Nguyễn Văn Long

  • Bà Nguyễn Thị Xuân

  • Ông Nguyễn Văn Thu

  • Ông Nguyễn Văn Vân

  • Bà Kí Trúc – Tên Hiệu: là con của Cụ với Cụ Bà ngoài giá thú.

Tuy rất đông con nhưng sự giáo dục theo nề nếp phong kiến cực kỳ nề nếp. Anh trên em dưới kỷ cương rõ ràng.

Các con của Cụ đều được học nghề nông nghiệp từ những tá điền giỏi nhất. Vào ngày nông vụ các con của Cụ đều phải ra đồng làm cùng tá điền đến hết giờ mới nghỉ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Designed and Maintained byThiết kế website Đà Nẵng, DANAWEB.vn